Đa Nhĩ Cổn nhiếp chính (1643–1650) Thuận_Trị

Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn trong bộ triều phục. Ông trị vì như Hoàng đế de facto từ năm 1643 cho đến khi qua đời năm 1650, thời kì này nhà Thanh tiến hành thống nhất Trung Nguyên.

Trước khi nhập quan

Tế Nhĩ Cáp Lãng là một vị tướng có tài cầm quân nhưng lại không quan tâm đến các vấn đề chính sự. Ngày 17 tháng 2 năm 1644, ông triệu tập quân viên Nội Tam viện, Lục bộ, Đô sát viện và Lý phiên viện tuyên bố: "Từ sau, phàm các nha biện lí sự vụ, hoặc có việc trình lên hai vương, hoặc có báo cáo thì phải bẩm với Duệ Thân vương trước, giấy tờ cũng phải có chữ của Duệ Thân vương trước, ngồi theo thứ tự mà hành lễ nghi, chú ý cùng bảo nhau để làm tiền lệ".[28] Sau khi âm mưu lật đổ nhiếp chính của Hào Cách bị phát giác vào ngày 6 tháng 5 năm đó, Hào Cách bị tước danh vị Thân vương và đồng đảng của ông bị xử tử.[29] Đa Nhĩ Cổn nhanh chóng thay thế những người ủng hộ Hào Cách (phần lớn đến từ Lưỡng Hoàng kì) bằng người của mình, và do đó nắm lấy quyền kiểm soát thêm hai kì nữa.[30] Đầu tháng 6 năm 1644, gần như mọi quyền lực trong triều đình và quân đội rơi vào tay Đa Nhĩ Cổn.[31]

Đầu năm 1644, Đa Nhĩ Cổn và các cộng sự bàn kế xâm lược Đại Minh, giữa lúc cuộc khởi nghĩa nông dân sắp đánh vào Bắc Kinh. Ngày 24 tháng 4 năm đó, lãnh tụ quân khởi nghĩa là Lý Tự Thành chiếm được kinh thành, Sùng Trinh hoàng đế tự vẫn trên núi Môi Sơn phía sau Tử Cấm Thành.[32] Nhận được tin tức, các mưu thần người Hán của Đa Nhĩ Cổn là Hồng Thừa TrùPhạm Văn Trình (范文程; 1597–1666) khuyên ông nên chớp cơ hội để tiến vào Trung Quốc và đoạt lấy Thiên mệnh về cho nhà Thanh.[33] Trở ngại cuối cùng trên đường đến cửa thành Bắc Kinh của Đa Nhĩ Cổn chính là Tổng binh Sơn Hải Quan (nằm ở phía đông Trường Thành) Ngô Tam Quế.[34] Bị kẹt giữa hai thế lực là Mãn Châu và Lý Tự Thành, Ngô Tam Quế đã yêu cầu Đa Nhĩ Cổn giúp đỡ ông ta đánh bại nghĩa quân, khôi phục Đại Minh.[35] Đa Nhĩ Cổn không chịu và đòi Ngô phải quy thuận Đại Thanh, Ngô không còn lựa chọn nào khác, nên phải đồng ý.[36] Giữa lúc Ngô Tam Quế và Lý Tự Thành đang kịch chiến, Đa Nhĩ Cổn quyết định đưa quân kỵ đến can thiệp, cùng sự hỗ trợ của tinh binh dưới quyền Ngô Tam Quế, do đó giành chiến thắng quyết định trước Lý Tự Thành tại trận Sơn Hải quan ngày 27 tháng 5.[37] Quân của Lý Tự Thành vội vã chạy về Bắc Kinh, ra sức vơ vét cướp bóc cho đến khi Lý quyết định rút khỏi kinh thành vào ngày 4 tháng 6, mang theo tất cả của cải cướp được.[38]

Định đô Bắc Kinh

Thiên Đàn, nơi Thuận Trị Hoàng đế tế lễ vào ngày 30 tháng 10 năm 1644, mười ngày trước khi ông chính thức tuyên cáo là Hoàng đế Trung Hoa. Buổi lễ này là cột mốc đánh dấu sự kiện Đại Thanh nắm lấy Thiên mệnh.

Sau sáu tuần bị ngược đãi trong tay quân phiến loạn, phụ lão Bắc Kinh cùng đông đảo quan lại và thân sĩ hồ hởi mở tiệc lớn chào đón những người giải phóng vào ngày 5 tháng 6.[39] Họ giật mình, khi thấy trước mắt không phải là Ngô Tam Quế và thái tử Đại Minh, mà là Đa Nhĩ Cổn, một người Mãn Châu cưỡi ngựa đầu cạo tóc, tự xưng là Nhiếp chính vương.[40] Giữa lúc hỗn loạn, Đa Nhĩ Cổn cùng quân của mình tiến vào điện Vũ Anh (武英殿), cung điện duy nhất còn nguyên vẹn sau khi Lý Tự Thành phóng hỏa đốt hết Tử Cấm Thành vào ngày 3 tháng 6.[41] Quân Thanh được lệnh không được cướp bóc; nhằm đảm bảo cho việc chuyển giao chính quyền sang cho Đại Thanh diễn ra "một cách thuận lợi."[42] Tuy tuyên bố rằng mình đến đây để trả thù cho nhà Minh, nhưng Đa Nhĩ Cổn lại hạ lệnh xử tử toàn bộ hoàng tộc Đại Minh (bao gồm con cháu của Sùng Trinh Đế) cùng với những người ủng hộ.[43]

Ngày 7 tháng 6, chỉ hai ngày sau khi nhập thành, Đa Nhĩ Cổn xuống dụ thông báo với các quan viên xung quanh kinh thành, rằng nếu dân chúng chấp nhận đầu hàng, thay đổi y phục và cạo tóc, thì họ vẫn sẽ được giữ nguyên chức quan.[44] Ông đã phải bãi bỏ đạo dụ này ba tuần sau đó khi một số cuộc nổi dậy nông dân bùng nổ xung quanh Bắc Kinh, đe doạ sự kiểm soát của nhà Thanh đối với vùng thủ đô.[45]

Đa Nhĩ Cổn đón Thuận Trị hoàng đế vào thành Bắc Kinh ngày 19 tháng 10 năm 1644.[46] Ngày 30 tháng 10, vị hoàng đế 6 tuổi làm lễ tế trời đất tại Thiên Đàn.[47] Nhánh hậu duệ Khổng Tử ở phía nam giữ chức Ngũ kinh Bác sĩ (五經博士) và hậu duệ đời thứ 65 của Khổng Tử ở phía bắc đang giữ tước Diễn Thánh công đều công nhận vào ngày 31 tháng 10.[47] Một nghi lễ đăng cơ chính thức được cử hành cho Phúc Lâm vào ngày 8 tháng 11, tại đây hoàng đế trẻ so sánh công tích của Đa Nhĩ Cổn ví như Chu Công nhiếp chính cho Thành Vương ngày xưa.[48] Cũng trong hôm đó, phong hiệu của Đa Nhĩ Cổn được thăng từ "Nhiếp chính vương" thành "Thúc phụ Nhiếp chính vương" (叔父攝政王), mà theo phong tục Mãn Châu thì "Thúc phụ" (ecike) có địa vị cao hơn Thân vương bình thường một cấp.[49] Ba ngày sau, đồng Nhiếp chính Tế Nhĩ Cáp Lãng bị giáng hiệu từ "Nhiếp chính vương" thành "Phụ chính Thúc vương" (輔政叔王).[50] Tháng 6 năm 1645, Đa Nhĩ Cổn tuyên bố rằng về sau tất cả công văn phải gọi ông là "Hoàng thúc phụ Nhiếp chính vương" (皇叔父攝政王), khiến ông ta chỉ còn cách ngai vàng một bước nhỏ. Cuối cùng đến năm 1648 lại đổi xưng là "Hoàng phụ Nhiếp chính vương" (皇父摄政王) [50]

Để đề cao tính chính thống của mình đối với giới tinh hoa người Hán, nhà Thanh đã cho tổ chức lại khoa cử ngay sau khi tiến vào Bắc Kinh năm 1644.

Một trong những hành động đầu tiên của Đa Nhĩ Cổn tại thủ đô mới là sáp nhập tất cả những vùng phía bắc kinh đô vào Bát Kỳ, bao gồm cả Hán quân kỳ.[51] Lưỡng Hoàng kỳ được trao các cung điện phía bắc, Lưỡng Bạch kỳ ở phía đông, Lưỡng Hồng kỳ ở phía tây, và Lưỡng Lam kỳ ở phía nam.[52] Sự phân bố này phù hợp với bố cục trước đây của người Mãn trước khi chinh phạt Trung Nguyên.[53] Mặc dù Thanh đình dùng chính sách miễn giảm thuế và xây dựng các công trình thổ mộc để thuận lợi cho việc chuyển giao, đến năm 1648, nhiều người Hán vẫn mang ý chống đối với những kẻ xâm lược dị tộc.[54] Đất canh tác nông nghiệp ở ngoài kinh thành bị nhà Thanh đánh dấu và thu giữ trao cho quân đội.[55] Những chủ đất trước đây bây giờ trở thành người ở thuê và phải trả thuế cho chủ đất người Mãn Châu.[55] Sự chuyển biến này đã gây ra "sự đổ vỡ và khổ nạn suốt nhiều thập kỉ sau đó."[55]

Năm 1646, Đa Nhĩ Cổn tổ chức khoa cử để tuyển chọn quan viên cho chính phủ mới. Từ đó cứ mỗi ba năm lại có một khoa thi, giống như chế độ thời nhà Minh. Trong kì thi Đình đầu tiên, các sĩ tử, chủ yếu đến từ miền bắc Trung Quốc, bình luận về cách làm thế nào để người Hán và người Mãn có thể chung sống với nhau với cùng mục đích chung.[56] Đề của khoa thi năm 1649 là "làm sao để người Mãn và người Hán trở thành một, đồng tâm hiệp lực, làm việc với nhau không chia rẽ ?"[57] Dưới thời Thuận Trị hoàng đế, số người đỗ trung bình trong mỗi khoa thi là cao nhất trong các đời vua Thanh ("để giành lấy sự ủng hộ của người Hán"), cho đến 1660 thì triều đình mới hạn chế số người lấy đỗ.[58]

Để thúc đẩy sự hòa hợp giữa hai dân tộc, năm 1648, Đa Nhĩ Cổn ban hành sắc lệnh cho phép thường dân Hán có thể kết hôn với phụ nữ Mãn Châu, nếu có sự chấp thuận của Bộ Hộ nếu người phụ nữ đó là con gái của quan lại hoặc thường dân, hoặc sự cho phép của trưởng tộc hai bên nếu họ là dân thường không có hộ khẩu. Chỉ sau này triều đình mới ban hành chính sách cho phép việc li hôn.[51][59][60]

Hoàn tất chinh phạt Trung Nguyên

Bài chi tiết: Chiến tranh Minh-Thanh
Xem thêm: Nam Minh
Một bản khắc gỗ thời Thanh mạt tái hiện vụ thảm sát Dương châu thập nhật năm 1645. Em trai của Đa Nhĩ Cổn, Dự Thân vương Đa Đạc là người ra lệnh tiến hành đồ sát những người Hán bất phục để buộc các thành thị miền nam Trung Quốc phải đầu hàng. Đến cuối thế kỉ 19 cuộc thảm sát được những người cách mạng sử dụng để khơi dậy tinh thần phản Thanh của người Hán.[61]

Dưới sự lãnh đạo của Đa Nhĩ Cổn — người được các sử gia gọi là "người hoạch định cuộc chinh phạt" và "kiến trúc sư trưởng của nền thống trị Mãn Châu" — nhà Thanh đã chinh phục được hầu hết lãnh thổ Trung Quốc và đẩy lùi chính quyền "Nam Minh" lưu vong xuống sâu hơn về phía tây nam. Sau khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa phản Thanh ở Hà BắcSơn Đông vào hè-thu năm 1644, Đa Nhĩ Cổn cử quân đến thảo phạt Lý Tự Thành ở thành trì quan trọng Tây An (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây), nơi Lý tái lập căn cứ sau khi rút khỏi Bắc Kinh đầu tháng 6 năm 1644.[62] Dưới áp lực của quân Thanh, Lý buộc phải rút khỏi Tây An vào tháng 2 năm 1645, sau đó Lý Tự Thành chết - có thể ông ta tự sát hoặc bị dân địa phương tưởng nhầm là đạo tặc nên giết chết - vào tháng 9 năm 1645 sau khi trốn chạy lần lượt qua rất nhiều tỉnh.[63]

Sau khi chiếm được Tây An, vào đầu tháng 4 năm 1645 quân Thanh mở chiến dịch thu phục vùng đồng bằng trù phú Giang Nam (phía nam sông Dương Tử); tại đây vào tháng 6 năm 1644, các cựu thần của nhà Minh đã tôn lập một hoàng thân là Phúc vương Chu Do Tung làm hoàng đế, sử gọi là nhà Nam Minh.[64] Sự tranh chấp giữa các phe phái và nạn đào ngũ trong nội bộ khiến cho việc tăng cường năng lực đề kháng của chính quyền Nam Minh bị cản trở.[65] Quân Thanh tiến về phía nam, đoạt lấy Từ Châu phía bắc sông Hoài vào tháng 5 năm 1645 và nhanh chóng tập trung về Dương Châu, thành thị trọng yếu nhất của Nam Minh ở phía bắc phòng tuyến.[66] Thành Dương Châu do Sử Khả Pháp trấn thủ quyết không đầu hàng, dũng cảm kháng cự và thất thủ sau đó một tuần (ngày 20 tháng 5) trước sức công phá của đại pháo quân Thanh.[67] Đa Đạc (em ruột của Đa Nhĩ Cổn) hạ lệnh đồ sát toàn bộ dân chúng trong thành Dương Châu.[68] Đúng như dự định, cuộc thảm sát này đã buộc các thành trì khác ở Giang Nam phải đầu hàng Đại Thanh.[69] Lễ bộ Thượng thư Nam Minh là Tiền Khiêm Ích mở thành Nam Kinh đầu hàng không kháng cự vào ngày 16 tháng 6 sau khi Đa Đạc tuyên thệ sẽ không tàn sát bách tính.[70] Quân Thanh bắt sống được Hoằng Quang Đế Chu Do Tung (bị xử tử tại Bắc Kinh vào năm sau) và thu phục các thành phố lớn ở Giang Nam, bao gồm Tô ChâuHàng Châu; trước đầu tháng 7 năm 1645, biên giới giữa nhà Thanh và Nam Minh bị đẩy xuống phía nam sông Tiền Đường.[71]

Một người đàn ông ở Chinatown thuộc San Francisco khoảng những năm 1900. Phong tục cạo đầu của người Trung Quốc bắt đầu từ sắc lệnh của Đa Nhĩ Cổn vào tháng 7 năm 1645 buộc tất cả đàn ông cắt hết phần tóc phía trước và tết phần còn lại thành bím theo kiểu của người Mãn.

Ngày 21 tháng 7 năm 1645, sau khi chinh phạt hầu hết đất Giang Nam, Đa Nhĩ Cổn ban lệnh cho tất cả đàn ông Trung Quốc phải cạo nửa đầu và thắt phần tóc còn lại thành đuôi sam theo như phong tục của người Mãn Châu.[72] Hình phạt dành cho những kẻ không tuân theo là cái chết.[73] Chính sách này này giúp người Mãn Châu kết bạn với kẻ thù.[74] Tuy nhiên đối với các quan chức và học giả người Hán, kiểu tóc mới này đáng xấu hổ và luồn cúi (vì nó vi phạm một nguyên tắc của Nho giáo là giữ gìn thân thể), trong khi với những người dân thường thì việc cắt tóc cũng giống như là đánh mất sự nam tính của họ.[75] Bởi vì phong tục để tóc của người Trung Quốc có thể khiến các lực lượng kháng Thanh dễ dàng tập hợp lực lượng, ngăn cản cuộc chinh phạt của nhà Thanh.[76] Nhiều người dân ở Gia ĐịnhTùng Giang bị thảm sát bởi tướng cũ của Minh là Lý Thành Đông (mất 1649), tương ứng vào các ngày 24 tháng 822 tháng 9.[77] Thành Giang Âm cũng kiên thủ chống lại 10.000 quân Thanh trong 83 ngày. Khi tường thành bị công phá vào ngày 9 tháng 10 năm 1645, quân Thanh dưới quyền của phản tướng Minh là Lưu Lương Tá (mất 1667) đã đồ sát gần như toàn bộ dân số, khoảng 74.000 đến 100.000 người bị giết trong lần này.[78] Những cuộc thảm sát này đã đàn áp phong trào kháng Thanh ở hạ lưu sông Dương Tử.[79] Một vài người nhân vật còn trung thành với nhà Minh chọn cách trở thành ẩn sĩ, với ý nghĩ rằng khi những hành động quân sự không thành công, thì việc buông bỏ sự đời ít nhất sẽ tiếp tục thể hiện sự chống đối của họ đối với thế lực ngoại tộc.[79]

Sau khi Nam Kinh thất thủ, hai thành viên trong hoàng tộc nhà Minh lại nổi dậy lập ra hai chính quyền mới: thế lực ở vùng Phúc Kiến là Long Vũ Đế Chu Duật Kiện, tức Đường vương, hậu duệ đời thứ chín của hoàng đế khai quốc nhà Minh Chu Nguyên Chương và chính quyền còn lại đóng tại Chiết Giang, đứng đầu là "Giám quốc Nhiếp chính" Lỗ vương Chu Dĩ Hải.[80] Nhưng cả hai chính quyền này không chịu hợp tác với nhau, khiến cho cơ hội thành công của họ thậm chí còn thấp hơn so với Phúc vương trước kia.[81] Tháng 7 năm 1646, chiến dịch Nam chinh do Bác Lạc cầm đầu đã khiến chính quyền Lỗ vương lâm vào tình thế nguy ngập và đánh thẳng vào căn cứ của Đường vương ở Phúc Kiến.[82] Chu Duật Kiện bị bắt và hành quyết ở Đinh Châu (phía tây Phúc Kiến) vào ngày 6 tháng 10.[83] Dưỡng tử của ông là Trịnh Thành Công chạy thoát ra đảo Đài Loan.[83] Cuối cùng vào tháng 11, các trung tâm kháng chiến của nhà MinhGiang Tây đều rơi vào tay nhà Thanh.[84]

Chân dung của họa sĩ Johan Nieuhof. Nhân vật trong tranh là Thượng Khả Hỷ, người đã chiếm lại Quảng Châu từ các lực lượng trung thành với triều Minh năm 1650. Ông cũng là một trong những vị tướng người Hán trong được nhà Thanh trọng dụng để chinh phạt và quản lý miền nam Trung Quốc. Là một thế lực cát cứ ở miền nam, ông cuối cùng tham gia tạo phản kháng Thanh của Tam phiên vào năm 1673.

Đến cuối năm 1646, hai vị hoàng đế khác của họ Chu được lập lên ở Quảng Châu, lấy niên hiệu là Thiệu Vũ (紹武) và Vĩnh Lịch.[84] Vì không có đủ tiền mua quân trang, chính quyền Thiệu Vũ phải thuê quần áo từ các gánh hát địa phương.[84] Hai chính quyền này lại đánh nhau đến ngày 20 tháng 1 năm 1647, khi một đội quân nhỏ của nhà Thanh do Lý Thành Đống (李成栋) dẫn đầu chiếm Quảng châu, giết Thiệu Vũ Đế, và buộc triều đình Vĩnh Lịch chạy trốn đến Nam Ninh, Quảng Tây.[85] Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1648, Lý Thành Đống phản lại nhà Thanh, và một nổi dậy xảy ra đồng thời của một vị tướng khác ở Giang Tây đã giúp triều đình Vĩnh Lịch chiếm lại hầu hết miền nam Trung Quốc.[86] Nhưng sự trỗi dậy này không kéo dài được lâu. Quân Thanh lại tiến xuống khu vực trung tâm Hồ Quảng (nay là Hà BắcHà Nam), Giang TâyQuảng Đông trong các năm 1649 và 1650.[87] Hoàng đế Vĩnh Lịch lại phải bôn đào một lần nữa.[87] Cuối cùng vào ngày 24 tháng 11 năm 1650, quân Thanh do Thượng Khả Hỷ chỉ huy tiến chiếm Quảng Châu và đồ sát 70.000 người dân trong thành.[88]

Trong khi đó, vào tháng 10 năm 1646, quân Thanh do Hào Cách (trưởng tử của Hoàng Thái Cực, thất bại trong cuộc tranh chấp quyền kế vị ngai vàng năm 1643) tiến vào Tứ Xuyên, để tiêu diệt thế lực của quân khởi nghĩa nông dân Trương Hiến Trung.[89] Trương Hiến Trung bị giết trong trận chiến với quân Thanh ở gần Tây Sung trung tâm Tứ Xuyên vào ngày 1 tháng 2 năm 1647.[90] Cũng vào cuối năm 1646 ở phía bắc, lực lượng phản quân của thủ lĩnh Hồi giáo mà sử sách Trung Quốc gọi là Mễ Lạt Ấn nổi lên chống lại nhà Thanh tại Cam Túc. Ông ta nhanh chóng hội quân với một người khác là Đinh Quốc Đống (丁國棟).[91] Họ tuyên bố tôn chỉ khôi phục nhà Minh, và tiến chiếm nhiều nơi ở Cam Túc, bao gồm cả thủ phủ Lan Châu.[91] Những cuộc nổi dậy này còn có sự tham gia của các những người Hán không theo Hồi giáo, cho thấy họ không phải đứng lên vì mục đích tôn giáo.[91] Cả Mễ Lạt ẤnĐinh Quốc Đống đều bị tướng Thanh Mạnh Kiều Phương (孟喬芳; 1595–1654) bắt và giết năm 1648, cho đến năm 1650, các cuộc nổi dậy của người Hồi giáo đều bị dập tắt hoàn toàn.[92]